Câu hỏi:
Năm 1960, tôi có gửi Hợp tác xã nông nghiệp 3 sào đất do bố mẹ để lại. Năm 1972, tôi nghỉ hưu và được Hợp tác xã trả lại cho mảnh đất khác rộng 369 m2. Sau khi có đầy đủ giấy tờ, tôi đã làm nhà hết 47m2, số đất còn lại được chia cho bốn người con và nhượng cho cháu. Các con, cháu tôi đã làm nhà ở riêng đều đóng thuế đất theo từng gia đình.
Năm 2004, UBND thành phố Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho vợ chồng tôi, nhưng lại ghi đất ở là 150 m2, đất vườn là 184 m2 trong khi không còn đất vườn, vì gia đình tôi đã làm nhà. Tôi muốn hỏi, giấy chứng nhận ghi như thế là đúng hay sai? Làm thế nào để xin giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) cho từng hộ?
Trả lời:
Ông Bùi Ngọc Tuân, Phó Vụ trưởng Vụ Đất đai (Bộ Tài Nguyên và Môi trường):
Thửa đất có diện tích 369 m2 mà Hợp tác xã trả lại cho ông năm 1972 là thuộc quyền sử dụng của vợ, chồng ông và đã được xác nhận qua các giấy tờ mà ông nêu là "có đầy đủ”. Vì vậy, khi ông chia đất cho con để làm nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cháu, ông phải làm thủ tục tách thửa và chuyển quyền sử dụng đất cho con và cháu ông tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ.
Nếu ông chưa làm thủ tục chuyển quyền cho các con và cháu ông thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông, các con và cháu ông phải căn cứ vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các giấy tờ pháp lý mà ông, các con và cháu ông đã nộp cho UBND xã (phường, thị trấn) nơi có đất.
Trường hợp khi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất đối với thửa đất mà HTX đã trả cho ông năm 1972, chỉ có vợ chồng ông làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với toàn bộ diện tích thửa đất, thì việc địa phương không cấp giấy chứng nhận cho các con và cháu ông là đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Trường hợp các con và cháu ông, mỗi hộ đều có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi UBND xã, phường thị trấn nơi có đất nhưng trong quá trình thực hiện thủ tục cấp giấy, không hộ nào thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước, thì việc địa phương không cấp giấy chứng nhận cho các con và cháu ông là đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Để từng hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì ông và từng hộ đang sử dụng đối với phần diện tích thửa đất vừa phải làm thủ tục xin tách thửa đất, đồng thời vừa phải làm thủ tục tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại các Điều 117, 148 và Điều 142 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.
Ông có thể đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc phòng Tài nguyên và Môi trường của thành phố Thanh Hoá để được hướng dẫn chi tiết thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho từng hộ.
Bạn đọc có những thắc mắc cần được hỗ trợ, tư vấn trong lĩnh vực nhà đất. Vui lòng gửi thư về địa chỉ Email: cafeluat@cenodi.vn
Xin chân thành cảm ơn!
Theo Bộ TN - MT