Chính sách thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát và cắt giảm đầu tư công đã hưởng không nhỏ đến thị trường tài chính.
(Ảnh minh họa: Hoàng Hải/TTXVN)
|
Mặc dù thị trường chứng khoán được dự báo có khả năng sẽ tăng chung do hàng hóa trên thị trường và quy định mới về niêm yết bắt buộc đối với các công ty đại chúng nhưng đây vẫn không phải là kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp xây dựng do sản phẩm kém sức thu hút. Bởi vậy, khó khăn vẫn tiếp tục bủa vây các doanh nghiệp xây dựng.
Nhận diện khó khăn
Bộ Xây dựng nhận định, tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Cũng như các lĩnh vực khác, doanh nghiệp xây dựng tiếp tục chịu tác động từ ảnh hưởng chung của nền kinh tế. Mặc dù thị trường bất động sản đã có dấu hiệu tích cực song sự phục hồi vẫn diễn ra chậm. Kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp tiếp tục đình trệ do thiếu nhà đầu tư; thậm chí, nhiều khu công nghiệp đang nằm trong tình trạng tỷ lệ lấp đầy thấp.
Sôi động như phân khúc nhà ở nhưng sự ảm đạm cũng kéo dài tới hơn hai năm do nguồn cung lệch cầu. Sản phẩm nhà ở thiếu đa dạng, không đáp ứng đòi hỏi của đại bộ phận dân cư có nhu cầu nên tính thanh khoản thấp. Sự đóng băng của thị trường khiến các chủ đầu tư nản lòng, bỏ cuộc, khiến nhiều khu đô thị đầu tư dở dang hạ tầng kỹ thuật hoặc đầu tư xong phần thô nhưng không tiêu thụ đành “bỏ hoang.”
Do thị trường bất động sản là đầu ra chủ yếu của các ngành sản xuất vật liệu xât dựng khác như thép, ximăng, vật liệu phụ trợ khác… nên ảnh hưởng có tính dây chuyền.
Tính đến cuối quý 1 năm nay, tổng giá trị tồn kho bất động sản ước khoảng trên 92.000 tỷ đồng. Việc tiêu thụ các chủng loại hàng hóa này cũng ngưng chệ, dẫn tới lượng hàng tồn kho lớn với khoảng 16 triệu m2 gạch ốp lát, 12 triệu m2 kính xây dựng, 2,6 triệu tấn ximăng, 800.000 tấn thép... Đây là nguyên nhân làm tăng chi phí tài chính.
Bên cạnh đó, tình trạng nợ đọng trong kinh doanh từ lâu vẫn chưa có hướng giải quyết triệt để, đặc biệt tại các công trình trọng điểm, công trình có quy mô vốn lớn và gián tiếp làm gia tăng khoản nợ xấu. Dư nợ phải trả, phải thu của hầu hết các doanh nghiệp đều cao dẫn đến mất cân bằng thu-chi tài chính và làm ảnh hưởng đến việc minh bạch hóa thông tin tài chính doanh nghiệp.
Do thiếu vốn, vốn tự có của doanh nghiệp thấp, những bất cập trong việc tái cơ cấu nguồn vốn (thoái vốn, cơ cấu các khoản vốn vay ngắn hạn, cơ cấu nợ…) và việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng cũng như huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân gặp khó khăn càng gia tăng mức độ ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp ngành xây dựng.
Mặc dù lãi suất vay vốn tín dụng gần đây đã được điều chỉnh giảm, nhưng nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay từ các ngân hàng do không đủ điều kiện pháp lý để vay vốn; giá đầu vào của nhiều loại vật tư, nguyên liệu tăng, trong khi giá bán sản phẩm không tăng, hoặc tăng ít làm ảnh hưởng đến đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, dẫn đến hàng tồn kho nhiều. Một số doanh nghiệp phải rơi vào tình trạng phá sản hoặc nợ nần.
Tình hình thoái vốn tại các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả cũng gặp rất nhiều khó khăn do thị trường chứng khoán suy giảm và do quy định bảo toàn vốn của Nhà nước cũng như những điều kiện bắt buộc khi chào bán cổ phiếu ra công chúng của Luật chứng khoán.
Hiện tình trạng thiếu việc làm và thu nhập cho người lao động của các doanh nghiệp đang hiện hữu, đặc biệt là đơn vị sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp, xây lắp thủy điện do vừa phải chịu ảnh hưởng từ việc cắt giảm đầu tư của Chính phủ vừa phải cạnh tranh gay gắt với các nhà thầu nước ngoài có tiềm lực tài chính, công nghệ cao hơn. Vì vậy việc duy trì đội ngũ công nhân lành nghề có chuyên môn cao hiện cũng đang là những thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp.
Gỡ khó cho doanh nghiệp
Theo Bộ Xây dựng, để hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra, một trong những giải pháp đang được triển khai quyết liệt là thực hiện có hiệu quả các chính sách tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản gắn với việc thực hiện chiến lược phát triển nhà ở quốc gia mà trọng tâm là phát triển nhà xã hội.
Theo đó, ngành Xây dựng phối hợp với các địa phương trên toàn quốc tiếp tục rà soát các dự án phát triển đô thị, phát triển nhà ở đang triển khai và ngay cả các dự án đã giao cho chủ đầu tư nhưng chưa triển khai. Từ đó, tiến hành phân loại các dự án được tiếp tục triển khai, các dự án cần tạm dừng, các dự án cần điều chỉnh cơ cấu, loại hình nhà ở cho phù hợp với nhu cầu thị trường; kiên quyết cho dừng, tạm dừng và thu hồi dự án theo đúng những tiêu chí và quy định của pháp luật…
Đặc biệt, trong năm nay, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng đã khẳng định đề xuất không cấp phép đầu tư mới đối với các dự án phát triển nhà ở thương mại, các khu đô thị mới trừ các dự án nhà ở xã hội, nhà ở thương mại có diện tích dưới 70m2 và giá bán không quá 15 triệu đồng/m2.
Theo lý giải của Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng: “Suốt một thời gian dài chúng ta đã quá tôn trọng thị trường, đây cũng là một bài học cần rút kinh nghiệm bởi tư tưởng thị trường hóa đã đẩy bất động sản phát triển tự phát theo phong trào nên khiến cung vượt xa cầu, phân khúc lệch lạc dẫn đến dư thừa, tồn kho cao... Hiện nay, việc tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản đang rất nặng nề."
Thúc đẩy thị trường xây dựng phát triển một cách toàn diện, Bộ Xây dựng cho rằng cần tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết 02/NQ-CP mà trước hết đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói tín dụng ưu đãi 30.000 tỷ đồng. Việc triển khai nhanh gói tín dụng ưu đãi cho người thu nhập thấp đô thị, cho các dự án nhà ở thương mại đang xây dựng dở dang có quy mô căn hộ nhỏ được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi 30.000 tỷ đồng sẽ giúp các dự án hoàn thành nhanh, sớm có sản phẩm cung ứng cho thị trường và góp phần giải quyết hàng tồn kho.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài cũng là một giải pháp nhằm tăng thêm nhu cầu văn phòng làm việc, căn hộ cho thuê. Đồng hành cùng giải pháp này, chính sách bán nhà cho các đối tượng là người nước ngoài có dự án đầu tư, kinh doanh lâu dài tại Việt Nam cũng đang được nghiên cứu, điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Để vượt qua khó khăn của giai đoạn này và phát triển bền vững trong tương lai, Bộ Xây dựng đã chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả tái cấu trúc nhằm hình thành các tổ hợp có đủ sức mạnh về tài chính đảm đương các công trình trọng điểm quốc gia và có quy mô quốc tế.
Trước yêu cầu đặt ra, bản thân các doanh nghiệp cũng phải chủ động nắm bắt, làm chủ công nghệ tiên tiến, về quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; đồng thời, cải tiến công tác kinh doanh, tiếp thị và quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước; thiết lập các kênh phân phối hiệu quả chính là một trong những cách thức để giúp các doanh nghiệp tiếp cận thị trường một cách nhanh chóng, giảm bớt các khâu trung gian; song song với đó là ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp thị, bán hàng; việc sản xuất kinh doanh đảm bảo hiệu quả tốt mới giúp loại bỏ dần khó khăn và giải quyết được các khoản nợ xấu.
Bộ Xây dựng khẳng định, các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn đang tiếp tục rà soát, đổi mới cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi để tăng khả năng tiếp cận vốn, khuyến khích đầu tư, nhất là đối với những doanh nghiệp có triển vọng phát triển, có sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường nhưng đang gặp khó khăn về tài chính; tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm.
DiaOcOnline.vn - Theo Vietnam+