Quy định nhà ở hình thành trong tương lai phải được NHTM có đủ năng lực bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách hàng theo Luật Kinh doanh BĐS(sửa đổi) đã tạo những điểm tích cực cho thị trường, nhưng cũng gây ra nhiều áp lực cho doanh nghiệp.
Băn khoăn tính khả thi
Luật sư Nguyễn Hữu Học, Hãng luật Giải Phóng
Khái niệm bảo lãnh được định nghĩa như sau: “Bảo lãnh NH là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh (NH) cam kết với bên nhận bảo lãnh (khách hàng) về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh (chủ đầu tư) khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Sau đó bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh”.
Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người mua khi chủ đầu tư vi phạm nghĩa vụ theo cam kết. Tuy nhiên, tôi thấy vẫn còn nhiều băn khoăn về tính khả thi. Bởi hiện nay hầu hết các dự án đều thế chấp để vay vốn NH, khoản vay có thể lên đến 70% giá trị dự án, nay lại dùng NH để bảo lãnh cho dự án này không khác gì “bình mới rượu cũ”. Mặt khác, nếu chủ đầu tư có năng lực tài chính, có uy tín trên thương trường mà buộc họ phải nộp phí bảo lãnh rất vô lý.
Hiện nay có rất nhiều dự án BĐS có tổng mức đầu tư lên tới hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn tỷ đồng. Như vậy việc yêu cầu các NH đứng ra bảo lãnh vượt quá khả năng của NH. Có thể khi gặp trường hợp này, nhiều NH sẽ ngồi lại với nhau để đồng bảo lãnh. Tuy nhiên, các NH phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tín dụng nên luôn kiểm soát rủi ro. Do vậy nhiều NH cùng bảo lãnh một dự án cũng không dễ, khi mỗi NH có chính sách tín dụng riêng và cân bằng rủi ro.
Có ý kiến cho rằng một NH có thể bảo lãnh dự án quy mô vốn bao nhiêu so với vốn pháp định? Bởi nếu bảo lãnh một dự án quy mô vốn 2.000-3.000 tỷ đồng xem như NH đó tồn tại chỉ để phục vụ cho một dự án, các hoạt động cho vay và đầu tư khác phải dừng lại? Như đã nói, hoạt động của NH phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tín dụng, trong đó đặc biệt phải duy trì tỷ lệ bảo đảm an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và hợp nhất, đồng thời phải có các biện pháp kiểm soát rủi ro tín dụng. Do vậy không ai “bỏ trứng vào một giỏ”, nên khả năng dồn vốn vào một dự án là khó có thể xảy ra.
Vậy khi có sự tham gia bảo lãnh của NH có hoàn toàn hạn chế rủi ro và bảo đảm quyền lợi tuyệt đối cho người mua nhà? Thực tiễn không có quy định pháp luật nào hoàn hảo để kiểm soát rủi ro đơn phương cho một bên trong giao dịch. Quy định bảo lãnh này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho người mua nhà cũng vậy.
Quy định là vậy, nhưng trong quá trình thực hiện, về quy trình, thủ tục và hợp đồng bảo lãnh sẽ được các NH soạn rất kỹ, trong đó chú ý đặc biệt đến quyền lợi của họ. Nên tôi nghĩ, sẽ có điều khoản để NH từ chối bảo lãnh trong một số trường hợp nào đó. Và người mua nhà luôn bị thiệt vì thông thường chỉ biết ký vào hợp đồng theo mẫu của chủ đầu tư đưa ra. Chờ để lấy được tiền từ hoạt động bảo lãnh không phải dễ.
Cũng có ý kiến cho rằng thay vì bảo lãnh dự án, NH nên đứng ra bảo lãnh cho từng sản phẩm (căn hộ, đất nền…). Tôi nghĩ đây là một ý hay. Không nên bắt buộc bảo lãnh cho tất cả dự án cũng như cho tất cả các căn hộ trong một dự án.
Việc bảo lãnh nên để cho nhà đầu tư tự nguyện, tùy theo khả năng và chính sách của công ty. Hoặc để cho chủ đầu tư thỏa thuận với từng khách hàng khi khách hàng có yêu cầu, vì cần một sự bảo đảm tín dụng hay một cam kết của nhà đầu tư.
Luật có hiệu lực cũng như không
Cột mốc 1-7 để Luật Kinh doanh BĐS và Luật Nhà ở (sửa đổi) chính thức có hiệu lực, 2 nghị định hướng dẫn vẫn chưa được công bố. Điều này khiến cho không ít người dân, doanh nghiệp lo lắng đối với chính sách mang tính bước ngoặt như bảo lãnh BĐS hay cho người nước ngoài, Việt kiều thuê, mua nhà.
Trên thực tế, việc luật đã có hiệu lực nhưng nghị định, thông tư hướng dẫn vẫn chưa được ban hành có thể trở thành một rào cản cho sự tin tưởng vào sự ổn định chính sách trên thị trường BĐS. Theo GS. Đặng Hùng Võ, người nước ngoài sẽ luôn có tâm lý suy xét cẩn thận trước khi bỏ một số tiền lớn để mua căn hộ hay biệt thự tại Việt Nam. Bởi xét một cách khách quan, có thể họ chưa tin tưởng lắm đối với sự ổn định về mặt chính sách để có thể an tâm đầu tư.
Nhiều chủ đầu tư cũng đã tỏ ra sốt ruột trước độ trễ của 2 nghị định này, không có nghị định hay thông tư hướng dẫn cụ thể việc giao dịch liên quan đến người nước ngoài hay Việt kiều đều phải tạm hoãn, bởi các quy định liên quan đến chuyển nhượng còn thực sự chưa rõ ràng. Nhiều chuyên gia cũng nhận định, nếu sự chậm trễ này kéo dài, chắc chắn việc thu hút dòng vốn này sẽ gặp thêm nhiều trở ngại. Đây quả thực là điều đáng tiếc bởi phải qua rất nhiều cố gắng, chính sách cho người nước ngoài, Việt kiều mới có thể trở nên thông thoáng như hiện nay. Trong khi đó, theo đại diện Bộ Xây dựng, cho đến nay Bộ Xây dựng mới trình Chính phủ được 3/5 dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành 2 sắc luật trên.