Top

Quy hoạch sử dụng đất đứng trước nguy cơ "phá sản"

Cập nhật 02/08/2007 14:00

Sau 20 năm đổi mới, đã có gần 200 đô thị ra đời, đưa tổng số đô thị cả nước từ 600 lên hơn 800. Quy hoạch sử dụng đất ở đô thị đến 2010 đã được Quốc hội thông qua năm 2006 là 110.700ha. Tuy nhiên đến 2005 đất ở đô thị (không tính đất giao thông và các loại đất khác của đô thị) đã sử dụng hết gần 103.000ha.

Chỉ còn khoảng 7.800ha và cũng đã giao cho các chủ dự án phát triển đô thị thực hiện. Tức là tính đến 2007 về cơ bản kế hoạch sử dụng đất ở đô thị đã hoàn thành sớm 3 năm. Trước đó (giai đoạn 2001 - 2005), đất ở tại các đô thị đã tăng thêm 30.721ha, bình quân đất ở đô thị 12m2/người.

Theo PGS.TS.KTS Nguyễn Hồng Thục, kế hoạch 110.700ha đất ở đến 2010 có nguy cơ "phá sản" nặng nề là do dân số đô thị đang tăng cao và khó kiềm chế nổi. Số liệu trong nước ước tính dân số đô thị VN hiện là 27 triệu (từ 1990-2005 tăng thêm 9,7 triệu). Số liệu của Viện Konrad Adenaur tại VN đưa ra, hiện dân số đô thị VN 33,2 triệu và đến 2020 sẽ 70,84 triệu, chứ không phải là 46 triệu như số liệu của Bộ Xây dựng. Nếu tính toán của Konrad Adenaur sát thực tế hơn, thì cuộc khủng hoảng đô thị ở VN khó tránh khỏi.

Từ đó hàng loạt câu hỏi cần đặt ra, khi ấy 70,84 triệu dân các thành thị sẽ làm việc, cư trú ở đâu, phải dành bao nhiêu đất cho đô thị, mô hình nào cho định cư bền vững các đô thị VN, lấy đâu ra nguồn tài chính xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội (giao thông, điện, nước, chiếu sáng, trường học, bệnh viện...), bằng cách nào để dòng di dân không biến TP.HCM và Hà Nội thành các thành phố khổng lồ ngột ngạt vì ô nhiễm và thiếu các điều kiện an sinh xã hội?

Những nghịch lý củaquá trình đô thị hóa

Bà Thục đánh giá, có 3 nghịch lý trong quá trình đô thị hoá ở VN.

Thứ nhất, đô thị hoá xảy ra trước công nghiệp hoá. Ở nước Anh trước khi phát triển các thành phố hiện đại đầu tiên đã có 80 năm công nghiệp hoá, nước Mỹ là 50 năm và các "con rồng" châu Á là 30 năm. Tuy không có những điểm khởi đầu rõ ràng, nhưng chính cuộc cách mạng công nghiệp hoá đã chuyển hoá phương thức sản xuất nông nghiệp của cư dân nông thôn sang lao động công nghiệp dịch vụ với những cư dân thành thị.

Ở VN quá trình này ngược lại. Làn sóng chuyển cư tới các đô thị ngày càng gia tăng sớm hơn tốc độ tăng công nghiệp, dịch vụ. Nhu cầu định cư tại đô thị vì thế tăng theo. Sự bùng nổ hệ thống khu đô thị mới đang diễn ra, một mặt vừa giảm áp lực chỗ ở cho người dân, vừa đem lại lợi nhuận kếch sù cho giới kinh doanh bất động sản. Nhưng, các khu đô thị mới chỉ phát triển các công trình để ở, còn bỏ ngỏ các công trình dân sinh, hạ tầng xã hội. Và điều này giải thích cho hiện tượng đất ở của đô thị vì sao sớm hoàn thành kế hoạch sử dụng đến vậy.

Hạ tầng kỹ thuật đi sau là nghịch lý thứ hai. Nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ có khả năng kế hoạch hoá tốt hơn kinh tế nông nghiệp; dựa vào các nguồn nhân lực tham gia để quy hoạch, thiết kế đô thị. Theo đó, hạ tầng kỹ thuật, xã hội luôn đi trước. Chính vì thế mà những thành phố của các nước phát triển có thể chịu đựng tốt làn sóng nhập cư lao động. Còn các TP của chúng ta không chịu đựng được. Khảo sát đất xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của nhiều đô thị ở VN mới chỉ đạt khoảng 10-15% đất đô thị, trong khi yêu cầu tối thiểu cần từ 30-35%.

Cụ thể hơn, diện tích đất giao thông của Hà Nội bình quân đầu người là 5,8m2, TP.HCM là 2,9m2, so với tiêu chuẩn thế giới là rất thấp (20-25%). Theo khuyến cáo của Hiệp Hội đô thị VN, để khắc phục, theo kịp tốc độ tăng dân số đô thị, từ nay đến 2010, VN cần 8,9 tỷ USD cho 3 hạng mục: Cấp nước, thoát nước, thu gom rác thải. Đến 2020 cần tới 13 tỷ USD cũng chỉ để làm ba việc này. Chỉ tính riêng Hà Nội, đến 2020, cần 25 tỷ USD để phát triển giao thông đô thị. TP Hồ Chí Minh còn cần nhiều hơn thế.

Nghịch lý thứ ba là thôn tính đất vành đai. Năm 1996 chiến lược phát triển đô thị VN vạch kế hoạch cho tổng thể đất đô thị đến 2020 là 460.000 ha, thì đến 2006 đã thực hiện trên 477.000 ha, vượt kế hoạch 13 năm. Lấy Hà Nội làm ví dụ, TP đã áp sát thủ phủ của các tỉnh lân cận, tức là đã "thanh toán" vùng vành đai xanh bao bọc nó. Điều này đi ngược nguyên tắc giữ các vành đai xanh để đảm bảo phát triển bền vững. Xoá đi ranh giới địa lý giữa các thành phố, lấy đi những vùng đất màu mỡ luôn cung cấp rau xanh, thực phẩm và các loại hoa, thủ tiêu những lá phổi xanh, không gian nghỉ dưỡng nhất thiết phải gìn giữ.

Theo Minh Thu - Kinh Tế & Đô Thị