Top

Người nước ngoài không sở hữu quá 30% số căn hộ một tòa chung cư

Cập nhật 08/05/2015 08:59

Theo dự thảo lần cuối tờ trình Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Nhà ở do Bộ Xây dựng soạn thảo, người nước ngoài không được sở hữu quá 30% tổng số căn hộ của một tòa chung cư.

(Ảnh minh họa: Quách Lắm/TTXVN)

Trường hợp trên một địa bàn tương đương cấp phường có nhiều tòa nhà chung cư để bán, cho thuê mua thì tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu không quá 30% số căn hộ của mỗi tòa nhà chung cư và không quá 30% tổng số căn hộ của tất cả các tòa nhà chung cư này.

Đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở mà có nhà ở riêng lẻ để bán, cho thuê mua thì tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu không vượt quá 10% tổng số nhà ở riêng lẻ của mỗi dự án; trường hợp trong một dự án hoặc trên một địa bàn có số dân tương đương cấp phường có nhiều dự án có số lượng nhà ở riêng lẻ tương đương bằng 2.500 căn thì tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu khôngvượt quá 250 căn.

Bộ Xây dựng sẽ hướng dẫn cụ thể cách thức xác định số lượng nhà ở mà tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu.

Muốn sở hữu nhà ở tại Việt Nam, cá nhân nước ngoài phải có hộ chiếu còn giá trị có đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của cơ quan có thẩm quyền xuất, nhập cảnh của Việt Nam và không thuộc diện được quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao theo quy định của Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan Đại diện ngoại giao, cơ quan Lãnh sự nước ngoài và cơ quan Đại diện của Tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

Đối với tổ chức nước ngoài phải thuộc đối tượng quy định tại Điều 159 của Luật Nhà ở và có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép hoạt động tại Việt Nam còn hiệu lực tại thời điểm tham gia các giao dịch về nhà ở.

Tuy nhiên, tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở (bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ) trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại thuộc khu vực không cấm hoặc hạn chế cá nhân nước ngoài cư trú, đi lại để bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật về cư trú, đi lại.

Bộ Quốc phòng và Bộ Công an có trách nhiệm xác định cụ thể các khu vực cấm hoặc hạn chế cá nhân nước ngoài cư trú, đi lại tại từng địa phương và có văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để chỉ đạo Sở Xây dựng xác định cụ thể từng dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại trên địa bàn khôngcho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở.

Sở Xây dựng có trách nhiệm công bố công khai trên Cổng thông tin điện tử của Sở danh mục các dự án đầu tư xây dựng nhà ở nằm trong khu vực mà tổ chức, cá nhân nước ngoài không được phép sở hữu nhà ở.

Để quản lý nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, Sở Xây dựng các đại phương có trách nhiệm lập một mục riêng trên Cổng thông tin điện tử của Sở để quản lý các thông tin về danh mục các dự án đầu tư xây dựng nhà ở mà tổ chức, cá nhân nước ngoài không được sở hữu nhà ở; số lượng nhà ở (bao gồm số căn hộ, số lượng nhà ở riêng lẻ) trong từng dự án mà tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu; số lượng nhà ở đã mua, đã được tặng cho, đã được cấp Giấy chứng nhận.

Trước khi ký hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, chủ đầu tư phải kiểm tra thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Sở Xây dựng hoặc đề nghị Sở Xây dựng cung cấp thông tin để xác định số lượng nhà ở được bán, cho thuê mua.

Chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở chỉ được bán, cho thuê mua nhà ở cho tổ chức, cá nhân nước ngoài theo đúng số lượng quy định.

Theo Bộ Xây dựng, mọi giao dịch mua bán, cho thuê mua nhà ở vượt quá số lượng mà tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu quy định này hoặc mua, thuê mua nhà ở tại dự án đầu tư xây dựng nhà ở không thuộc diện được sở hữu đều không có giá trị pháp lý và không được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận; bên bán, cho thuê mua nhà ở phải bồi thường thiệt hại cho bên mua, thuê mua nhà ở.

DiaOcOnline.vn - Theo Vietnam+